Nhân khẩu học là quy trình phân tích các đặc điểm của các cộng đồng dân cư và các tập hợp con của cộng đồng dân cư, như độ tuổi, chủng tộc, và giới tính. Trong ngành marketing, nhân khẩu học giúp các doanh nghiệp xác định được những người tiêu dùng nhiều khả năng mua sản phẩm hoặc dịch vụ của họ nhất.
Trong marketing, nhân khẩu học là mấu chốt để xây dựng các chiến dịch marketing nhắm mục tiêu nhằm thu hút những nhóm người tiêu dùng cụ thể. Ví dụ, Southwest Airlines, vốn tự hào là một hãng hàng không giá rẻ với những chuyến bay trực tiếp với tần suất cao đến nhiều nơi, nhắm các quảng cáo của họ đến số gia đình trung lưu, các chủ doanh nghiệp nhỏ, những người thường thực hiện những chuyến công tác ngắn, và người trưởng thành trẻ tuổi. Ngược lại, United Airlines, vốn có chi phí cao hơn nhưng cũng mang lại nhiều ưu đãi hơn cho hành khách, nhắm đến những người có bằng đại học, có công việc toàn thời gian ổn định, và các hộ gia đình thu nhập từ 50.000 USD trở lên.
Trong hầu hết các trường hợp, các doanh nghiệp cho biết chiến lược quảng cáo nhắm mục tiêu dựa trên nhân khẩu học sẽ hiệu quả hơn về mặt chi phí so với chiến lược marketing đại trà phổ quát. Marketing trên cơ sở phân tích nhân khẩu học chính vì vậy giúp tăng doanh thu và khả năng nhận diện thương hiệu.
Đối mặt với tình trạng chi phí marketing ngày càng tăng cao, các doanh nghiệp cũng dần ứng dụng nhân khẩu học nhiều hơn nhằm xác định được nhóm đối tượng mục tiêu khả thi nhất cho các chiến dịch marketing của họ. Bởi kích cỡ và sở thích của các nhóm nhân khẩu học khác nhau sẽ thay đổi theo thời gian, các công ty còn phải nắm được các xu hướng nhân khẩu học. Ví dụ, các công ty sử dụng nhân khẩu học để dự báo nhu cầu của nhóm dân số già tại Mỹ. Khi người ta già đi, họ có xu hướng chi tiêu nhiều hơn vào các sản phẩm và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, và phương thức lẫn đặc trưng của các chiến dịch marketing nhắm đến những khách hàng cao tuổi này cũng rất khác biệt so với các chiến dịch nhắm vào người tiêu dùng trẻ tuổi.
Thông thường, nhân khẩu học cung cấp thông tin về người tiêu dùng dựa trên các yếu tố sau:
Nhìn chung, các yếu tố được sử dụng trong nhân khẩu học và ứng dụng của nhân khẩu học có thể khá đa dạng tùy thuộc loại nghiên cứu mà bạn đang thực hiện. Bên cạnh quảng cáo và marketing, nhân khẩu học còn được sử dụng trong chính trị, xã hội học, và các mục đích văn hóa khác.
Các nhà quảng cáo thu thập thông tin nhân khẩu học từ nhiều nguồn đa dạng, bao gồm các cơ quan chính phủ, các viện nghiên cứu tư nhân, các công ty marketing, và truyền thông. Trong thời đại thông tin ngày nay, dữ liệu nhân khẩu học đã trở thành một mặt hàng thương mại đáng giá.
Các nhà đài và radio trả tiền cho các công ty nghiên cứu như Nielsen Company và Arbitron để thu thập dữ liệu nhân khẩu học chi tiết và luôn cập nhật về người xem, người nghe. Các tạp chí và tờ báo lớn cung cấp dữ liệu nhân khẩu học về đọc giả của họ cho người mua là các nhà quảng cáo tiềm năng. Trên mạng xã hội, internet, thông tin người tiêu dùng quý giá được thu thập từ các cá nhân sẵn sàng chấp nhân “cookies” trên các website mà họ ghé thăm.
Gần như mọi chiến dịch quảng cáo đều bắt đầu bằng cách xác định nhóm đối tượng mục tiêu lý tưởng. Khi tất cả dữ liệu nhân khẩu học về người tiêu dùng của một sản phẩm hay dịch vụ cụ thể được tổng hợp lại, nó sẽ được dùng để tạo ra một “tài liệu sáng tạo vắn tắt”, tức một tài liệu cơ bản miêu tả nhóm đối tượng mục tiêu và cách tốt nhất để giao tiếp với họ. Trong quá trình xác định nhóm khách hàng mục tiêu lý tưởng, các công ty quảng cáo có xu hướng chọn một trong ba hướng tiếp cận sau:
Được xem là hướng tốt nhất, bởi chỉ cần thu thập một lượng dữ liệu nhân khẩu học vừa đủ để xây dựng một tính cách khách hàng mục tiêu có độ cụ thể cao. Ví dụ, một nhãn hiệu đồng hồ đeo tay cao cấp có thể hấp dẫn với một người đàn ông 45 tuổi đã kết hôn, có bằng thạc sỹ, râu ria cắt tỉa gọn gàng, làm đầu tư trong ngân hàng, lái một chiếc Mercedes mui trần, thích nghe nhạc cổ điển, và chơi golf ở châu Âu mỗi dịp rảnh rỗi.
Dù được xem là chấp nhận được, các chiến dịch quảng cáo nhắm đến nhóm khách hàng đại chúng lại ít có khả năng thành công hơn bởi sự khó khăn trong việc truyền tải thông điệp về sản phẩm đến một bộ phận dân cư dàn trải. Ví dụ, để nhắm đến những người có độ tuổi từ 20 – 45, có công ăn việc làm, có ô tô hoặc bán tải, và thích thể thao đòi hỏi công ty phải tương tác với số lượng người quá đông đúc. Kết quả là, các chiến dịch quảng cáo nhắm đến khách hàng đại chúng thường trở nên quá tầm thường, không có gì nổi bật.
Các chiến dịch quảng cáo tìm cách tiếp cận nhóm đối tượng “mọi người” là rất hiếm hoi và có khả năng thất bại cực cao. Dẫu vậy, các công ty thỉnh thoảng vẫn thử tiếp cận hầu hết mọi người bằng cách nhắm vào các mục tiêu chủ chốt và thứ cấp. Ví dụ, một chiến dịch quảng cáo đã thất bại của một chuỗi thực phẩm đông lạnh từng nhắm đến nhóm khách hàng chủ chốt là đàn ông và phụ nữ từ 18 – 49 tuổi với thu nhập thấp đến trung bình, thường mua tạp phẩm, và nhóm khách hàng thứ cấp là bất kỳ ai tuổi từ 8 – 80 với thu nhập bất kỳ thích mua hàng ở tạp hóa.
Các chiến dịch thành công nhất là những chiến dịch xác định được mọi chi tiết nhân khẩu học khả thi nhất về các khách hàng tiềm năng của họ. Tìm cách tiếp cận một nhóm khách hàng quá rộng hoặc quá đại trà thường sẽ là một nước đi “tự sát”.
Sử dụng sai nhân khẩu học cũng có thể dẫn đến thất bại. Ví dụ, nhãn hiệu Procter & Gamble ban đầu đã không thể bán dòng sản phẩm lau sàn Swifter của họ tại Ý bởi chiến dịch quảng cáo nhắm đến những phụ nữ muốn sở hữu các sản phẩm lau dọn tiện lợi. Khi P&G phát hiện ra người Ý muốn sản phẩm lau dọn thật mạnh mẽ chứ không phải tiện lợi, họ đã tinh chỉnh quảng cáo và nhờ đó, Swifter đã thành công vang dội.
5 yếu to nhân khẩu học
|
Ví dụ về nhân khẩu học trong Marketing | Nhân khẩu học gồm | Nhân khẩu học gồm những yếu to nào |
Yếu to nhân khẩu học trong marketing | Môi trường nhân khẩu học là gì | Môi trường nhân khẩu học của Vinamilk | Đặc điểm nhân khẩu học |
Bài liên quan